Thủy điện là gì? Các công bố khoa học về Thủy điện

Thủy điện là một hệ thống sản xuất điện năng sử dụng năng lượng từ nước chảy trong các dòng sông, suối, hồ, hầm nước hoặc các công trình thủy lợi khác. Thủy điệ...

Thủy điện là một hệ thống sản xuất điện năng sử dụng năng lượng từ nước chảy trong các dòng sông, suối, hồ, hầm nước hoặc các công trình thủy lợi khác. Thủy điện khai thác năng lượng từ các nguồn nước tự nhiên, chuyển đổi năng lượng cơ học thành điện năng thông qua việc vận hành các động cơ turbine và máy phát điện. Thủy điện được coi là một nguồn điện tái tạo, không gây ra khí thải gây hại cho môi trường và có thể cung cấp điện năng liên tục và ổn định.
Thủy điện có thể được chia thành hai loại chính là thủy điện mặt trời và thủy điện lưu động.

Thủy điện mặt trời: Đây là dạng thủy điện phổ biến nhất, thu thập và tận dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời để sản xuất điện. Hệ thống thủy điện mặt trời bao gồm các bề mặt phản chiếu ánh sáng, hệ thống tạo ra dòng chảy của nước, turbine và máy phát điện. Ánh sáng mặt trời được tập trung vào bề mặt phản chiếu ánh sáng, cung cấp năng lượng cho quá trình làm nóng nước và biến nó thành hơi nước. Hơi nước được đẩy qua máy bay hơi của turbine, tạo ra năng lượng cơ học. Năng lượng này sau đó được chuyển đổi thành điện qua máy phát điện.

Thủy điện lưu động: Loại thủy điện này sử dụng nước chảy từ các dòng sông bằng cách tạo ra các công trình thủy lợi như hồ chứa nước, hồ lớn, đập nước và hầm nước. Khi nước được chứa lại trong hồ, nó tạo ra một lượng lớn năng lượng tiềm năng. Khi cần sản xuất điện, công trình thủy lợi được mở ra, cho phép nước chảy qua các đường ống tiếp điện và đẩy turbine. Lực đẩy từ nước chảy tạo ra năng lượng cơ học, và sau đó nó được chuyển thành điện qua máy phát điện.

Thủy điện mang lại nhiều lợi ích, bao gồm việc cung cấp nguồn điện sạch, tái tạo, không gây ra khí thải gây hại cho môi trường, và nguồn điện ổn định, không bị ảnh hưởng bởi biến đổi thời tiết như năng lượng mặt trời hoặc gió. Tuy nhiên, đối với thủy điện lưu động, việc xây dựng các công trình thủy lợi có thể gây ảnh hưởng đến môi trường, ảnh hưởng đến sinh thái dòng sông và cuộc sống của các loài sinh vật nước.
Cụ thể hơn, thủy điện bao gồm các thành phần và quy trình sau:

1. Bể chứa nước: Đây là không gian lưu trữ nước, có thể là hồ chứa nước tự nhiên hoặc được tạo ra bằng cách xây dựng đập nước. Bể chứa nước được thiết kế để lưu trữ nước và tạo ra sự khác biệt độ cao trong dòng nước, tạo ra năng lượng tiềm năng.

2. Đập nước: Đập nước là công trình thủy lợi được xây dựng để chặn và kiểm soát lưu lượng nước. Đập nước có thể là đập truyền thống bằng bê tông hoặc đập đất, hoặc là hồ chứa nước tự nhiên. Khi cần, cánh cửa của đập được mở ra để cho phép lưu lượng nước chảy qua.

3. Hầm nước: Hầm nước là một hệ thống đường ống hoặc kênh dẫn nước từ hồ chứa nước đến turbine. Nước chảy từ hồ chứa xuống qua hầm nước, tạo ra một áp lực và lưu lượng nước đủ để làm vận hành turbine.

4. Turbine: Turbine chịu trách nhiệm chuyển đổi năng lượng cơ học từ nước chảy thành năng lượng quay. Nước chảy từ hầm nước đẩy lớp cánh của turbine, gây ra quay và tạo ra năng lượng cơ học.

5. Máy phát điện: Máy phát điện là thiết bị chuyển đổi năng lượng cơ học từ turbine thành điện năng. Với sự kết hợp của cái quay từ turbine, máy phát điện tạo ra điện năng thông qua cải thiện động cơ và các biến đổi điện từ.

6. Trạm biến áp: Sau khi được tạo ra, điện năng từ máy phát điện được đưa tới trạm biến áp để điều chỉnh và tăng áp đổi từ điện thế thấp sang điện thế cao, để có thể truyền tải qua các đường dây truyền điện.

7. Hệ thống truyền điện: Điện năng từ trạm biến áp được truyền tải qua mạng lưới điện để phân phối đến các khu vực sử dụng.

Tùy thuộc vào môi trường và điều kiện địa phương, thủy điện có thể được xây dựng như một dự án lớn, như thủy điện sông lớn, hoặc như các dự án nhỏ hơn, như thủy điện suối hay thủy điện rung cộng đồng. Thủy điện đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn điện sạch và bền vững, đồng thời giúp giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thủy điện":

Lý Thuyết Tự Do Kinh Điển về Lão Hóa Chín Muồi Dịch bởi AI
Physiological Reviews - Tập 78 Số 2 - Trang 547-581 - 1998

Beckman, Kenneth B., và Bruce N. Ames. Lý Thuyết Tự Do Kinh Điển về Lão Hóa Chín Muồi. Physiol. Rev. 78: 547–581, 1998. — Lý thuyết tự do kinh điển về lão hóa, được hình thành vào năm 1956, đã bước sang tuổi 40 và đang nhanh chóng thu hút sự quan tâm của chính dòng chảy nghiên cứu sinh học. Từ những nguồn gốc của nó trong sinh học bức xạ, trải qua một thập kỷ gần như ngủ yên và hai thập kỷ nghiên cứu hiện tượng ổn định, lý thuyết này đã thu hút ngày càng nhiều nhà khoa học từ một loạt lĩnh vực mở rộng. Trong thập kỷ vừa qua, một số bằng chứng đã khiến một số nhà khoa học tin rằng các chất oxy hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình lão hóa. (Để đơn giản, chúng tôi sử dụng thuật ngữ chất oxy hóa để chỉ tất cả các "quy trình oxy hóa phản ứng" như O2⋅, H2O2 và ⋅OH, mặc dù thành phần trước đó thường hoạt động như một chất khử và sản xuất các chất oxy hóa một cách gián tiếp.) Tốc độ và phạm vi nghiên cứu trong những năm gần đây đặc biệt ấn tượng và đa dạng. Hạn chế duy nhất của sự sôi nổi trí thức hiện tại nằm ở việc khó khăn trong việc tiêu hóa tài liệu. Do đó, chúng tôi đã xem xét một cách hệ thống trạng thái của lý thuyết tự do kinh điển, bằng cách phân loại tài liệu theo các loại thí nghiệm khác nhau đã được thực hiện. Những thí nghiệm này bao gồm những đo lường hiện tượng về stress oxy hóa liên quan đến tuổi tác, so sánh liên loài, hạn chế chế độ ăn uống, thao tác hoạt động chuyển hóa và áp lực oxy, điều trị bằng các chất chống oxy hóa từ chế độ ăn uống và dược phẩm, quá trình lão hóa trong ống nghiệm, di truyền học cổ điển và dân số, di truyền phân tử, sinh vật chuyển gen, nghiên cứu về các bệnh ở người liên quan đến lão hóa, các nghiên cứu dịch tễ học, và những khám phá đang tiếp tục về vai trò của oxy hoạt động trong sinh học.

Lý thuyết Quản lý hoặc Lý thuyết Đại diện: Quản trị CEO và Lợi nhuận Cổ đông Dịch bởi AI
Australian Journal of Management - Tập 16 Số 1 - Trang 49-64 - 1991

Lý thuyết đại diện cho rằng lợi ích của cổ đông cần được bảo vệ bằng cách tách biệt các vai trò của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO. Trong khi đó, lý thuyết quản lý lại cho rằng lợi ích của cổ đông sẽ được tối đa hóa khi có sự kết hợp vai trò này. Kết quả của một thử nghiệm thực nghiệm không hỗ trợ cho lý thuyết đại diện và hỗ trợ phần nào cho lý thuyết quản lý.

#lý thuyết đại diện #lý thuyết quản lý #lợi ích cổ đông #CEO #vai trò #tách biệt #kết hợp #thử nghiệm thực nghiệm #quản trị.
Chọn Phương Pháp Của Bạn: So Sánh Hiện Tượng Học, Phân Tích Diễn Văn, và Lý Thuyết Căn Bản Dịch bởi AI
Qualitative Health Research - Tập 17 Số 10 - Trang 1372-1380 - 2007

Mục đích của bài viết này là so sánh ba phương pháp định tính có thể được sử dụng trong nghiên cứu y tế: hiện tượng học, phân tích diễn văn và lý thuyết căn bản. Các tác giả bao gồm một mô hình tóm tắt những điểm tương đồng và khác biệt giữa các phương pháp, chú ý đến sự phát triển lịch sử, mục tiêu, phương pháp, khán giả và sản phẩm của chúng. Sau đó, họ minh họa cách mà các phương pháp này khác nhau bằng cách áp dụng chúng vào cùng một bộ dữ liệu. Mục tiêu trong hiện tượng học là nghiên cứu cách mà con người tạo ra ý nghĩa từ trải nghiệm sống của họ; phân tích diễn văn xem xét cách ngôn ngữ được sử dụng để hoàn thành các dự án cá nhân, xã hội và chính trị; và lý thuyết căn bản phát triển các lý thuyết giải thích về các quá trình xã hội cơ bản được nghiên cứu trong bối cảnh. Các tác giả lập luận rằng bằng cách làm quen với nguồn gốc và chi tiết của các phương pháp này, các nhà nghiên cứu có thể tìm được sự phù hợp tốt hơn giữa câu hỏi nghiên cứu của họ và các mục tiêu cũng như sản phẩm của nghiên cứu.

#phương pháp nghiên cứu #hiện tượng học #phân tích diễn văn #lý thuyết căn bản #nghiên cứu y tế
Tổng quan về các kết quả chính từ thử nghiệm Chủ thể Béo phì Thụy Điển (SOS) – một nghiên cứu can thiệp kiểm soát từ trước về phẫu thuật giảm cân Dịch bởi AI
Journal of Internal Medicine - Tập 273 Số 3 - Trang 219-234 - 2013
Tóm tắt

Béo phì là yếu tố nguy cơ đối với tiểu đường, các sự kiện bệnh tim mạch, ung thư và tỷ lệ tử vong tổng thể. Giảm cân có thể bảo vệ chống lại những tình trạng này, nhưng bằng chứng vững chắc về điều này đã thiếu hụt. Nghiên cứu Chủ thể Béo phì Thụy Điển (SOS) là thử nghiệm dài hạn, có kiểm soát, đầu tiên cung cấp thông tin về các tác động của phẫu thuật giảm cân đến tỷ lệ mắc các điểm cuối khách quan này. Nghiên cứu SOS bao gồm 2010 đối tượng béo phì đã trải qua phẫu thuật giảm cân [bắc cầu dạ dày (13%), băng (19%) và phẫu thuật dạ dày dọc (68%)] và 2037 đối tượng đối chứng béo phì khớp nối cùng thời gian nhận chăm sóc thông thường. Độ tuổi của các đối tượng tham gia là 37–60 tuổi và chỉ số khối cơ thể (BMI) là ≥34 kg m−2 ở nam và ≥38 kg m−2 ở nữ. Tại đây, chúng tôi xem xét các kết quả chính của nghiên cứu SOS được công bố từ năm 2004 đến 2012. Thời gian theo dõi thay đổi từ 10 đến 20 năm trong những báo cáo khác nhau. Các thay đổi trung bình về cân nặng sau 2, 10, 15 và 20 năm lần lượt là −23%, −17%, −16% và −18% ở nhóm phẫu thuật và 0%, 1%, −1% và −1% ở nhóm đối chứng. So với chăm sóc thông thường, phẫu thuật giảm cân liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong tổng thể trong dài hạn (điểm cuối chính) [tỷ lệ rủi ro điều chỉnh (HR) = 0.71, khoảng tin cậy 95% (CI) 0.54–0.92; P = 0.01] và giảm tỷ lệ mắc tiểu đường (tỷ lệ rủi ro điều chỉnh HR=0.17; P < 0.001), nhồi máu cơ tim (tỷ lệ rủi ro điều chỉnh HR = 0.71; P = 0.02), đột quỵ (tỷ lệ rủi ro điều chỉnh HR=0.66; P = 0.008) và ung thư (nữ: tỷ lệ rủi ro điều chỉnh HR = 0.58; P = 0.0008; nam: không có ý nghĩa thống kê). Tỷ lệ thuyên giảm tiểu đường đã tăng nhiều lần sau 2 năm [tỷ lệ odds điều chỉnh (OR) = 8.42; P < 0.001] và 10 năm (tỷ lệ OR điều chỉnh = 3.45; P < 0.001). Trong khi đó, nồng độ insulin và/hoặc glucose cao tại thời điểm bắt đầu dự đoán các hiệu quả điều trị thuận lợi, chỉ số khối cơ thể (BMI) cao tại thời điểm bắt đầu lại không, điều này chỉ ra rằng các tiêu chí lựa chọn hiện tại cho phẫu thuật giảm cân cần được xem xét lại.

Lý Thuyết Cơ Bản Của Phương Pháp Điện-Lừu-Từ Trong Khảo Sát Địa Vật Lý Dịch bởi AI
Geophysics - Tập 18 Số 3 - Trang 605-635 - 1953

Từ Định luật Ampere (với một trái đất đồng nhất) và từ phương trình Maxwell sử dụng khái niệm vectơ Hertz (cho một trái đất nhiều tầng), các giải pháp được tìm ra cho các thành phần ngang của trường điện và từ tại bề mặt do dòng điện đất (telluric currents) trong lòng đất. Tỷ lệ của các thành phần ngang này, cùng với pha tương đối của chúng, là chỉ báo về cấu trúc và điện trở suất thực của các lớp dưới mặt đất. Tỷ lệ của một số cặp yếu tố điện từ khác cũng có tính chỉ báo tương tự. Thông thường, một bảng đo quang điện-lừu từ được thể hiện bằng những đường cong điện trở suất biểu kiến và sự khác biệt pha tại một trạm cụ thể, được vẽ dưới dạng hàm của chu kỳ của các thành phần dòng điện đất khác nhau. Các công thức cụ thể được xây dựng cho điện trở suất, độ sâu tới các mặt phân cách, v.v. trong cả bài toán hai và ba lớp. Đối với hai vùng có hình dạng tương tự và điện trở suất tương ứng của chúng chỉ khác nhau bởi một hệ số tuyến tính, các mối quan hệ về pha là giống nhau và các điện trở suất biểu kiến khác nhau bởi cùng một hằng số tỷ lệ mà liên hệ với các điện trở suất thực tương ứng. Nguyên tắc "tính tương tự" này đơn giản hóa đáng kể việc biểu diễn một bộ đường cong chủ, như đã được đưa ra để sử dụng trong việc giải thích địa chất. Ngoài các lợi thế thông thường mang lại bởi việc sử dụng dòng điện đất (không cần các nguồn dòng điện hoặc cáp dài, độ sâu khảo sát lớn hơn, v.v.), phương pháp điện-lừu-từ trong thăm dò địa chất giải quyết các hiệu ứng của từng lớp đất tốt hơn so với các phương pháp điện trở thông thường. Nó dường như là một công cụ lý tưởng để điều tra ban đầu các lưu vực trầm tích lớn có tiềm năng dự trữ dầu mỏ.

#phương pháp điện-lừu-từ #định luật Ampere #phương trình Maxwell #vectơ Hertz #dòng điện đất #điện từ #điện trở suất #điều tra địa chất #lưu vực trầm tích #dầu mỏ
Nghiên cứu hoạt tính và độ chọn lọc của chất xúc tác cacbon pha tạp kim loại-nitơ cho quá trình khử điện hóa CO2 Dịch bởi AI
Nature Communications - Tập 8 Số 1
Tóm tắt

Việc khử điện hóa trực tiếp CO2 thành nhiên liệu và hóa chất bằng nguồn điện tái tạo đã thu hút sự chú ý đáng kể, một phần do những thách thức cơ bản liên quan đến khả năng phản ứng và độ chọn lọc, và một phần do tầm quan trọng của nó đối với các điện cực khuếch tán khí tiêu thụ CO2 trong công nghiệp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi giới thiệu những tiến bộ trong việc hiểu biết về các xu hướng trong điện cực xúc tác CO2 thành CO của cacbon xốp pha tạp kim loại-nitơ có chứa nhóm chức M-N x (M = Mn, Fe, Co, Ni, Cu). Chúng tôi nghiên cứu hoạt tính xúc tác nội tại của chúng, tần số chuyển đổi CO, hiệu suất Faraday của CO và chứng minh rằng các chất xúc tác Fe–N–C và đặc biệt là Ni–N–C có thể so sánh với các chất xúc tác dựa trên Au và Ag. Chúng tôi mô hình hóa nhóm chức M-N x sử dụng lý thuyết hàm mật độ và liên hệ các năng lượng liên kết lý thuyết với thực nghiệm để tạo ra các chỉ số mô tả reactivity-selectivity. Điều này cung cấp hiểu biết về cơ chế ở mức nguyên tử của độ chọn lọc CO và hydrocarbon phụ thuộc vào điện thế từ các nhóm chức M-N x và đưa ra hướng dẫn dự báo cho việc thiết kế hợp lý các chất xúc tác khử CO2 có chọn lọc dựa trên cacbon.

#khử điện hóa CO2 #chọn lọc điện hóa #cacbon pha tạp kim loại-nitơ #xúc tác M-N x #lý thuyết hàm mật độ
Nghiên cứu theo chiều hướng về tỷ lệ mắc chứng đông máu tĩnh mạch sâu trong một quần thể đô thị xác định Dịch bởi AI
Journal of Internal Medicine - Tập 232 Số 2 - Trang 155-160 - 1992

Trong một nghiên cứu theo chiều hướng, tất cả các phlebographies dương tính trong quần thể được xác định rõ ở thành phố MalmÖ, Thụy Điển, trong năm 1987 được nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ mắc chứng đông máu tĩnh mạch sâu (DVT). Dữ liệu dịch tễ học đã được phân tích để phát hiện các nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao về DVT. Tỷ lệ mắc bệnh được phát hiện là bằng nhau ở cả hai giới, tức là 1,6 trên 1000 dân cư trong một năm. Các yếu tố nguy cơ được tìm thấy phù hợp với các nghiên cứu trước đó. Độ tuổi trung vị cho nam giới là 66 tuổi, so với 72 tuổi cho nữ giới. Khi được chẩn đoán DVT, 19% số bệnh nhân đã có một bệnh ác tính được biết đến và trong vòng 1 năm, 5% (19 trường hợp) phát triển một bệnh ác tính mới. Trong số nam giới, 29% có DVT sau phẫu thuật hoặc chấn thương (gãy xương), so với 46% ở nữ giới. Số bệnh nhân có DVT thuộc nhóm máu 0 ít hơn so với dự kiến (39%) so với (31%) (P < 0,005). Thuyên tắc phổi (PE) chỉ được nghi ngờ lâm sàng trong 5% trường hợp, và chẩn đoán được xác nhận bằng xạ hình trong 2% trường hợp. Không trường hợp nào trong số này tử vong do PE, nhưng trong 6 bệnh nhân được phát hiện có PE qua khám nghiệm tử thi, bốn người đã chết khoảng 4 tuần sau khi được chẩn đoán DVT.

#Đông máu tĩnh mạch sâu #Quần thể đô thị #Thụy Điển #Dữ liệu dịch tễ học #Yếu tố nguy cơ
Lý thuyết về các trường nucleation trong các vật liệu điện từ không đồng nhất Dịch bởi AI
Physica Status Solidi (B): Basic Research - Tập 144 Số 1 - Trang 385-396 - 1987
Tóm tắt

Ảnh hưởng của cấu trúc vi mô đến trường cưỡng bức của các nam châm sinter được nghiên cứu dựa trên lý thuyết vi từ. Từ các phương trình vi từ tuyến tính, các trường nucleation được xác định cho các không đồng nhất từ tính có những biến đổi không gian gần như hài hòa về năng lượng thuận từ tinh thể. Đối với các chế độ nucleation một chiều và hai chiều, các trị riêng của các trường nucleation được suy diễn như một hàm của độ rộng và độ mạnh của các không đồng nhất từ tính phẳng.

Nhóm lượng tử và các phép biểu diễn của các danh mục monoidal Dịch bởi AI
Mathematical Proceedings of the Cambridge Philosophical Society - Tập 108 Số 2 - Trang 261-290 - 1990

Bài báo này nhằm mục đích làm rõ một số khía cạnh của các tương tác vừa được phát hiện giữa lý thuyết các nút và liên kết cổ điển, lý thuyết các danh mục monoidal, lý thuyết đại số Hopf, hệ thống tích phân lượng tử, lý thuyết các mô hình có thể giải được chính xác trong cơ học thống kê, và lý thuyết trường lượng tử. Các kết quả chính ở đây cho thấy một mối quan hệ mật thiết giữa các phép biểu diễn của một số danh mục monoidal xuất phát từ việc nghiên cứu các bất biến nút mới hoặc từ các cân nhắc vật lý với các nhóm lượng tử (tức là, các đại số Hopf). Đặc biệt, các danh mục của các mô-đun và co-mô-đun trên đại số Hopf dường như là những ví dụ cơ bản hơn về các danh mục monoidal so với những gì có thể nhận thấy ban đầu. Vai trò cơ bản của đại số Hopf trong lý thuyết danh mục monoidal cũng được thể hiện trong lý thuyết đối ngẫu Tannaka của Deligne và Mime [8a], mặc dù mối quan hệ giữa kết quả đó và công việc hiện tại không rõ ràng như mong đợi.

#Nhóm lượng tử #đại số Hopf #danh mục monoidal #lý thuyết nút và liên kết
Phân Tích Điện Hóa Sử Dụng Mảng Điện Electrode Vi Đĩa Amperometric Dịch bởi AI
Electroanalysis - Tập 19 Số 19-20 - Trang 1973-1986 - 2007
Tóm tắt

Bài báo này tổng hợp tài liệu liên quan đến các ứng dụng điện phân phân tích của các mảng điện cực vi dạng trong suốt 20 năm qua. Một mô tả lý thuyết ngắn về cơ chế vận chuyển khối lượng điều khiển hành vi của chúng được đưa ra, sau đó các phương pháp chế tạo chính được mô tả. Các ứng dụng được trình bày trong các phần sau của bài đánh giá này trải dài từ phân tích điện hóa thông thường, cụ thể là các phương pháp tước kim loại vi lượng, sử dụng các mảng được chỉnh sửa bằng thủy ngân đến những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực cảm biến sinh học (cảm biến enzym, cảm biến miễn dịch và cảm biến dựa trên axit nucleic).

#điện hóa #điện cực vi #cảm biến sinh học #phương pháp tước kim loại #thủy ngân
Tổng số: 623   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10